Lưu trữ

Posts Tagged ‘Tuổi trẻ Online’

Đa sắc đa chiều

Tháng Năm 5, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nam bộ những ngày hào hùng – Kỳ 1

TT – Sau mười năm nghiên cứu và biên soạn công phu, bộ sách Lịch sử Nam bộ kháng chiến chính thức được phát hành. Đây là một công trình khoa học đồ sộ chứa đựng nhiều tư liệu lịch sử mới. Nhân dịp kỷ niệm 36 năm Ngày thống nhất đất nước, Tuổi Trẻ trích giới thiệu một số điểm mới của bộ sách này và câu chuyện của những người biên soạn.

Ông Tô Bửu Giám, một thành viên ban biên soạn, run run cầm từng cuốn sách nặng trĩu, nét cười cũng run run: “Tôi cứ ngỡ mình không được nhìn thấy công trình xuất bản. Có 14 người đã ra đi trong quá trình thực hiện bộ Lịch sử Nam bộ kháng chiến: 11 anh trong hội đồng chỉ đạo, ba anh trong ban biên soạn và cộng tác viên…”.

Trong ấy có chủ tịch hội đồng chỉ đạo Võ Văn Kiệt và chủ biên Trần Bạch Ðằng.

Các đại biểu bên bộ sách Lịch sử Nam bộ kháng chiến tại buổi lễ ra mắt ngày 31-3-2011 Ảnh: Minh Đức

Không ít sự việc đã đi vào văn kiện chính thức với sự đánh giá cụ thể, song như vậy không có nghĩa là người sau phải chấp nhận như không còn gì để bàn cãi – thực sự, vẫn là con người đánh giá các sự việc với cả mặt sáng suốt lẫn hạn chế của con người trong cuộc. Như vậy, nếu công trình Lịch sử Nam bộ kháng chiến này có chỗ nào không hoàn toàn thống nhất với các đánh giá – thậm chí, kết luận – trước đây cũng là chuyện bình thường

Cố thủ tướng VÕ VĂN KIỆT
(chủ tịch Hội đồng chỉ đạo biên soạn
Lịch sử Nam bộ kháng chiến)

Tinh thần sử

Ông Nguyễn Trọng Xuất, tổng thư ký ban biên soạn, kể: lúc đầu chủ tịch hội đồng chỉ đạo giao cho một số người viết đề cương tổng quát của bộ sử, nhưng sau đó quyết định mời nhà nghiên cứu Trần Bạch Ðằng làm tổng biên tập. Chủ tịch hội đồng chỉ đạo Võ Văn Kiệt đích thân đến tận nhà ông Trần Bạch Ðằng, trèo lên thang gác, kiên trì thuyết phục ông.
Lúc đầu ông Trần Bạch Ðằng từ chối vì bận nhiều công trình khác, nhưng chủ tịch hội đồng chỉ đạo Võ Văn Kiệt quả quyết: “Nếu cậu không nhận làm thì mình cũng bỏ luôn”. Áp lực tình cảm ấy khiến nhà nghiên cứu Trần Bạch Ðằng gật đầu và ngồi lại.

Sau đó, bộ đề cương Lịch sử Nam bộ kháng chiến ra đời, sau nhiều lần tranh luận, chỉnh sửa đã trở thành đề cương chính cho bộ sách sau này. Việc biên tập bộ Lịch sử Nam bộ kháng chiến thật sự được bắt đầu vào cuối năm 2002… Ông Trần Bạch Ðằng trở thành tổng biên tập của bộ sử, sau đó chức danh này được thống nhất là “chủ biên”.

Những người biên soạn khó ai hình dung đến quá trình ngót nghét một thập kỷ cho ra đời bộ sử. Rồi câu chuyện ít ai lường trước là vị chủ biên đầy uy tín của bộ sử ấy đã ra đi khi “chuyện lớn” đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất. Ông Xuất ôn lại: Mọi việc đến nửa đường thì ông Trần Bạch Ðằng lâm trọng bệnh. Từ năm 2005 vị chủ biên đã yếu, nhiều lần thở oxy nhưng ông ráng gượng vượt qua đến năm 2006. Lúc ấy, cơ bản các chương đã hình thành, riêng tổng luận thì chưa có. Năm 2007, bệnh của vị chủ biên đã rơi vào giai đoạn nguy kịch. Một tuần trước lúc lâm chung, ông viết một lá thư gửi cho ông Võ Văn Kiệt đại ý: “Chưa bao giờ tôi băn khoăn ray rứt như lần này vì trong đời chưa bao giờ tôi nhận sự phân công mà không làm tròn. Ðây là bộ sách mà tôi tâm huyết!”. Nhận thư, ông Võ Văn Kiệt im lặng, rưng rưng nước mắt.

Ngày đưa tang, theo ông Xuất, ông Võ Văn Kiệt trân trọng viết vào sổ tang của cụ Trần Bạch Ðằng: “Ðây là một người mà tôi có thể nói là đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng…”.

Bộ sách do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chủ tịch hội đồng chỉ đạo và nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng làm chủ biên. Lịch sử Nam bộ kháng chiến gồm bốn cuốn, trong đó có hai cuốn chính sử tập trung vào hai giai đoạn là chống thực dân Pháp (1945-1954) và chống đế quốc Mỹ (1954-1975); hai cuốn Biên niên sự kiện lịch sử Nam bộ kháng chiến 1945-1975 và Những vấn đề chính yếu trong lịch sử Nam bộ kháng chiến.

Phong cách Trần Bạch Đằng

Ông Xuất nhớ lại cảm giác mình lúc ấy: “Tôi cứ nghĩ mọi việc có thể sẽ bị đổ vỡ!”. Bộ sách hơn nửa con đường, chủ biên thì qua đời. Phần kết luận về cuộc kháng chiến chống Mỹ và cả phần tổng luận 35 năm chiến tranh cách mạng cũng chưa có chữ nào.

Ông Xuất kể: “Trong lúc khó khăn ấy, ông Kiệt nói với mọi người rằng chúng ta cần nhất trí với nhau chỉ có một chủ biên duy nhất là Trần Bạch Ðằng, sẽ không có ai thay thế.

Bây giờ anh em đã cùng với Trần Bạch Ðằng “đi hết” cuộc kháng chiến, đã biết hết tính ý, văn phong… thì chúng ta tiếp tục viết. Còn có tập thể thường trực, tôi còn sống, ta sẽ phải hoàn tất công trình lịch sử này”. Phần tổng luận sau đó được ông Xuất cùng những đồng sự chấp bút. Tính đến lúc hoàn thành, nó cũng trải qua mười mấy lần chỉnh sửa.

May mắn được viết bởi chính những người đã từng làm nên lịch sử, Lịch sử Nam bộ kháng chiến còn may mắn được thừa hưởng phong cách làm việc “rất Trần Bạch Ðằng” mà ban biên soạn tuân thủ nghiêm ngặt. Chủ biên Trần Bạch Ðằng, bằng tất cả kinh nghiệm của mình, đã “đo ni đóng giày”, phân công cụ thể công việc cho từng người tùy theo sở trường, tùy theo trải nghiệm. Và cũng con người này, tinh thần sử học trong ông gần như bất biến. Người ta phải chấp nhận cả những phần đã hoàn tất phải bỏ đi hoặc giao lại cho người khác bởi ông thẳng thắn: “Tư duy như vậy thì không thể viết, không thể sửa được!”.

Từng sự kiện đều được xác minh, từng con số đều được đối chiếu, từng nhận định đều được phản biện, tranh luận, không chỉ giữa các thành viên ban biên soạn mà còn được gửi đến từng địa phương, từng đơn vị để lấy ý kiến. Lượng bản thảo nếu chất lên sẽ được tới mấy chồng cao hơn đầu người, ấy vậy mà người trẻ nhất trong ban biên soạn nay cũng đã ngoài 70 tuổi. “Nhưng đó lại chính là lợi điểm. Là những người trong cuộc, có nhiều điều kiện tiếp cận tư liệu, lại đã có đủ độ lùi cần thiết của lịch sử để nhìn nhận, đánh giá, nên sử trong Lịch sử Nam bộ kháng chiến đa sắc, đa chiều, vừa rộng lại vừa sâu”, ông Tô Bửu Giám tự tin khẳng định.

Ðọc Lịch sử Nam bộ kháng chiến, nhận ra những câu hỏi trước các sự kiện lịch sử mà ít bộ sử nào đã đặt ra: Tại sao lại chính là miền Nam “đi trước về sau” trong kháng chiến? Tại sao người miền Nam có thể tin tưởng chính quyền cách mạng và bước vào cuộc kháng chiến chỉ sau vỏn vẹn 28 ngày ngắn ngủi (từ 25-8 đến 23-9-1945)? Cái gì đã là động lực cho sức mạnh ấy?…

Các nhà biên soạn sách đã tìm câu trả lời từ quá khứ để khẳng định vị trí của miền Nam trong lòng dân tộc, lần lại sự hình thành cá tính của người miền Nam trong quá trình di dân mở cõi, tìm lại những gốc nguồn từ nền văn minh sông Hồng và sự pha trộn, giao hòa giữa các dân tộc. Bộ sách khẳng định người miền Nam luôn mang “tư cách của lực lượng xung kích, khai phá miền đất mới, luôn mang trong tâm khảm cội nguồn Việt Nam, xả thân vì trách nhiệm với đất nước, với xã hội do được trang bị thủy chung hai tài sản lớn: tinh thần dân tộc kiên cường và đòi hỏi thiêng liêng giang sơn chung một mối”.

Tính cách ấy của người miền Nam cũng thể hiện rõ trong cách các nhà biên soạn viết sử, được khẳng định ngay ở Lời mở đầu: “Không ít sự kiện đã đi vào văn kiện chính thức với đánh giá cụ thể, song như vậy không có nghĩa là người sau phải chấp nhận như không còn gì để bàn cãi. Nếu công trình có chỗ nào không hoàn toàn thống nhất với các đánh giá, kết luận trước đây thì cũng là bình thường, là cố gắng lao động của các thế hệ viết sử. Viết sử là để “ôn cố”, không chỉ đơn thuần vẽ lại quá khứ mà tự thân đã nhằm “tri tân”, nhắc cũ để tìm và hiểu cái mới”.

PHẠM VŨ – TIẾN HÙNG

__________________________

Lịch sử Nam bộ kháng chiến không chỉ cần tư liệu, cần cái nhìn thấu đáo mà còn cần cả sự dũng cảm của người viết sử”. Đó là tâm sự của những người biên soạn.

Kỳ tới: Tôn trọng sự thật

tuoitre.vn

Tôn trọng sự thật

Tháng Năm 5, 2011 Bình luận đã bị tắt

Nam bộ những ngày hào hùng – Kỳ 2

TT – “Lịch sử Nam bộ kháng chiến không chỉ cần sử liệu, cần cái nhìn thấu đáo mà còn cần cả sự dũng cảm của người viết sử”, ông Tô Bửu Giám khẳng định.

Ông Nguyễn Trọng Xuất: “Chúng tôi đã tranh luận thẳng thắn trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử!”

Đánh giá giải pháp Genève

Giải pháp Genève chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường, chưa đáp ứng được các yêu cầu chính trị của giải pháp do đoàn Việt Nam đề ra, chưa phản ánh đúng thắng lợi cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy vậy, hiệp định này đã chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, đẩy được quân Pháp ra khỏi Việt Nam, phá được âm mưu kéo dài chiến tranh của Mỹ, nâng cao được vị trí Việt Nam trên trường quốc tế, giải phóng được miền Bắc, giúp miền Bắc có điều kiện hòa bình để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này

Nguồn: Lịch sử Nam bộ kháng chiến

Đối diện sự kiện

Ông Nguyễn Trọng Xuất, tổng thư ký ban biên soạn, kể có những văn bản mà các ông phải tiếp cận bằng thư tay của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt. Lại có những con số phải đi tìm từ nhiều nguồn mà đến khi công bố đã làm ngỡ ngàng cả những người từng trực tiếp tham gia sự kiện. “Từ khi bắt tay vào đến lúc hoàn tất, chúng tôi thấy mình như thành một người khác, thấy mình trưởng thành hơn”.

Đó là cách mà một người già nói về lịch sử. Ông hình dung tương phản hơn: những ông già ngồi viết lịch sử đối diện với tuổi trẻ mình và tuổi trẻ của chính những nhân vật tham gia làm nên lịch sử. Ở đó, người ta dần ngộ ra thêm những điều mà trước đây cứ tưởng mình đã biết hết. Lịch sử đã tươi rói lên trong những sự kiện đầy tính khám phá và chiêm nghiệm.

Mỗi tuần ban biên soạn họp một lần tại văn phòng của chủ biên Trần Bạch Đằng. Những cuộc họp ấy sôi nổi, hào hứng và đôi khi gay gắt xoay quanh những góc nhìn, những quan điểm về một sự kiện lịch sử. “Tranh cãi dữ lắm”, ông Tô Bửu Giám nói ngắn gọn. Và đôi khi cuộc tranh cãi chỉ xoay quanh một từ ngữ, một con chữ.

Để diễn tả về sự tổn thất của lực lượng cách mạng và tính chất của phong trào miền Nam sau những đợt đàn áp đẫm máu của chính quyền Ngô Đình Diệm giai đoạn 1956-1959, dùng chữ “thoái trào” hay “đen tối”, hay “tình thế hiểm nghèo của cách mạng” các ông đã cân nhắc, đắn đo, tranh luận qua nhiều ngày.

“Chiến tranh qua đi, là những người trong cuộc đôi khi chúng tôi cứ ngỡ mình đã biết hết, hiểu hết, từng vùng miền đều đã có biên soạn, ghi chép sử riêng, cứ ngỡ đã sáng rõ hết. Nên khi được gọi đến giao việc tham gia ban biên soạn bộ sách này, đa số chúng tôi đều chưa hình dung công việc sẽ là gì, như thế nào. Rồi làm mới vỡ lẽ ra còn quá nhiều điều mình chưa biết, chưa hiểu, chưa thấu. Quá trình tìm hiểu lại các sự kiện với cái nhìn toàn cục của hôm nay khiến tôi thấy mình lớn hẳn lên”, ông Xuất trầm giọng kể.

Và một trong những câu chuyện mà ông tâm đắc, khiến ông thấy mình “lớn lên” nhiều nhất là cuộc tranh luận xoay quanh Hiệp định Genève. Có ý kiến cho rằng cứ “đánh rốc tới” thì không cần phải ký hiệp định Genève, không cần phải chuyển quân… Tuy nhiên, những người viết sử đã chứng minh cho luận điểm của mình bằng những con số về thực lực quân đội Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên, tình hình sản xuất, kinh tế miền Bắc năm 1954, những quan điểm đan xen của tình hình quốc tế.

Và cuối cùng, “toàn thể ban biên soạn và chỉ đạo cùng thống nhất rằng Điện Biên Phủ là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến việc ký kết Hiệp định Genève, một thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam. Quốc tế đã phải công nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” của Việt Nam. Đó mới chính là mục đích lớn mà Cụ Hồ đeo đuổi. Còn vĩ tuyến 16 hay 17, thời hạn hiệp thương để tiến tới tổng tuyển cử sáu tháng hay hai năm chỉ là những vấn đề chiến thuật. Vĩ tuyến 17 là ở trên bản đồ, còn ý thức thống nhất thì đã ở trong lòng dân” – ông Xuất bồi hồi nói vậy.

“Tôn trọng sự thật lịch sử, không tô hồng, không bôi đen”, lời khẳng định chắc nịch của ban biên soạn đã được chứng minh qua những dòng sử được viết từ chính tuổi trẻ tươi hồng và nỗi đau đằm sâu của bao người. Như lời cố thủ tướng Võ Văn Kiệt viết trong lời mở đầu: “Ngay với một kết quả thật đạt, người viết sử vẫn phải trăn trở: đi đến kết quả rất đẹp mà có thể bớt hi sinh không, bớt gian khổ không, có thể nhanh hơn không và nhất là ít tạo hệ lụy trả giá lâu dài không?”.

Sử Nam bộ và người Nam bộ

“Chúng tôi không ngần ngại công bố những sai lầm, thất bại, tổn thất để người đi sau hiểu rằng để có thống nhất, hòa bình ngày hôm nay chúng ta đã phải trả giá thế nào. Biết là để gìn giữ”, ông Xuất nói. Không chỉ soi vào những trận đánh, Lịch sử Nam bộ kháng chiến còn dành những phần lớn phân tích về các chính sách ruộng đất, kinh tế, các hoạt động văn hóa, tuyên truyền. Vẫn cái nhìn thẳng, rõ, vẫn những phân tích sâu sắc, những câu chuyện của hôm qua vẫn như sống động đến hôm nay.

Với cái nhìn phóng khoáng mà quyết liệt ấy, ban biên soạn đã mang đến một bộ sử rất khác. Ông Xuất tâm sự: ”Viết sử và được lớn lên với những trang lịch sử là niềm hạnh phúc cho mình. Nhưng, như Chủ tịch hội đồng chỉ đạo Võ Văn Kiệt đã viết trong lời nói đầu: “Hiện thực cuộc kháng chiến của nhân dân luôn cao hơn khả năng có hạn của hội đồng chỉ đạo biên soạn” nên chúng tôi thường nói với nhau: Phải chân thành lắng nghe những bổ sung phản biện của mọi người, giúp tu chỉnh bộ sử ngày càng tốt hơn…”.

Rồi vị tổng thư ký ban biên soạn ngậm ngùi: “Cả hai ông Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng đều đã không được thấy công trình hoàn thành, may mà chúng tôi đã đáp được phần nào mong đợi của hai ông”, tất cả thành viên ban biên soạn đều có chung một ý này. Ai cũng bảo “giá như… thì bộ sử hẳn sẽ còn hay hơn nữa” dù rằng ai cũng đã dốc cạn sức mình.

Với thái độ nghiêm cẩn và cháy lửa ấy, ban biên soạn đã để lại những lời kết luận sau giai đoạn Nam bộ kháng chiến như là viết cho ngày hôm nay: “Cái vốn mà Nam bộ để lại cho hành trình tiếp sau của miền Nam Việt Nam thật đồ sộ: sự sáng tạo và nhạy bén ứng xử với các tình huống, phát huy trí tuệ của cả cộng đồng, thực hiện dân chủ có hệ thống từ trong Đảng đến ngoài xã hội, tinh thần dám nghĩ dám làm, chống lại chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh viện, tận dụng phát huy khả năng của con người, tìm chỗ đồng nhất trong cộng đồng thay vì khoét sâu mặt khác biệt”.

Tinh thần ấy được chứng minh bằng những câu chuyện ngồn ngộn trong bộ sử.

PHẠM VŨ

—————————————

Trong chiến tranh, để khắc phục sai lầm, những người đảng viên cộng sản đã chủ động tìm kiếm một con đường đi đúng: Con đường từ trong nhân dân và thực tiễn. Đó là hoàn cảnh ra đời của nghị quyết 15, khắc phục sai lầm, chuyển hướng chiến lược cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.

Kỳ tới: Chuyển hướng chiến lược

tuoitre.vn