Lưu trữ

Posts Tagged ‘Buôn Mê Thuật’

Tại sao Buôn Ma Thuột?

Tháng Tư 13, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trận then chốt quyết định (kỳ 1)

LTS: Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mùa Xuân 1975, chiến dịch Tây Nguyên với trận mở đầu then chốt giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột đã khiến cho địch hoang mang, rối loạn, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh. Từ đó quân và dân ta thần tốc xốc tới quét sạch bè lũ Mỹ-ngụy, giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn.

Để ôn lại những ngày lịch sử hào hùng mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, chúng tôi trân trọng giới thiệu vệt bài do Tiến sĩ Vũ Cao Phan ghi theo lời thuật của Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo, nguyên Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên. Đây cũng là việc làm mang ý nghĩa thắp nén hương tưởng nhớ nhà chỉ huy quân sự kiệt xuất – Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo – người vĩnh biệt chúng ta cách đây vừa tròn 18 tháng. Loạt bài này từng được công bố nhưng đã được Thượng tướng Hoàng Minh Thảo xem lại, bổ sung, hoàn chỉnh trước lúc đi xa.

Tôi từ Tây Nguyên về công tác ở Quân khu V chưa được bao thời gian để làm quen với mọi việc thì cuối tháng tám, khi tiếng súng vẫn đang nổ giòn giã từ Thượng Đức đến Quế Sơn, có điện triệu tập tôi ra Hà Nội. Lại lên đường.

Tôi đến Thủ đô vào một ngày nắng dịu. Phố xá tràn cờ hoa và người xe trong không khí ngày hội. Mồng 2 tháng 9. Bất giác, ký ức và những sự liên tưởng dâng trào, xáo trộn khiến tôi không thể hình dung được ngay là mình đang xúc động bởi những gì. Tám năm tròn. Đúng rồi, đúng ngày này cách đây 8 năm, tôi đã rời Hà Nội vào chiến trường. Bao nhiêu trận đánh, bao nhiêu nẻo đường, bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu chiến thắng và hy sinh… Chỉ biết rằng chúng ta đang tới gần… Tự nhiên cứ vang ngân mãi trong lòng tôi một giai điệu hành khúc từ những xúc cảm dạt dào.

Quân giải phóng tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột.

Ở Hà Nội, tôi còn đang hiệu chỉnh lại các tài liệu để chuẩn bị báo cáo thì nhận được lời mời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến gia đình dự cơm thân mật. Những dịp như vậy chúng tôi vẫn quan niệm như một lần làm việc sơ bộ. Quả nhiên, khi chỉ còn hai chúng tôi, Đại tướng đã cho biết ý định của Bộ chính trị và Bộ tổng tư lệnh – Tổng tham mưu mở một chiến dịch lớn ở Nam Tây Nguyên vào mùa Xuân 1975. Rồi hỏi tôi:

– Ý kiến của các anh?

*

* *

Ý kiến của chúng tôi? Một chiến dịch cho Nam Tây Nguyên!

Đúng là do nhiều yếu tố rất dễ giải thích, các chiến dịch của mặt trận Tây Nguyên đã thường được tổ chức ở phía bắc. Sáu trên bảy đợt hoạt động quân sự có tính chất chiến dịch cho đến trước hiệp định Pa-ri đã diễn ra ở đây. Nhưng cũng có một chiến dịch cho Nam Tây Nguyên, chiến dịch Bu Prăng – Đức Lập vào thời kỳ khó khăn 1969, nhưng đã không thực hiện được. Một chiến dịch ở Nam Tây Nguyên? Xét về mặt địa lý quân sự, đó là một địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi cho đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch, nhất là vùng chung quanh Buôn Ma Thuột. Và cũng về mặt ấy, với ý nghĩa chiến lược, đó là vùng tiếp giáp giữa Tây Nguyên và Nam Bộ – giữa mặt trận B3 và B2 – đã luôn luôn là khâu trọng yếu cho việc bảo đảm hậu cần chiến lược. Nhưng khâu trọng yếu ấy vẫn đang còn là một khâu yếu, B2 không với ra, B3 chưa vươn tới. Cái nguyên nhân khiến cho các chiến dịch không thể mở được ở vùng này, oái ăm thay lại chính là cái nguyên nhân buộc phải mở các chiến dịch ấy: Vấn đề hậu cần.

Cần mở chiến dịch để giải quyết vững chắc vấn đề bảo đảm hậu cần chiến lược, nhưng không mở được các chiến dịch lại vì không thể bảo đảm hậu cần chiến đấu cho các trận đánh. Vẫn còn nhớ khi mở ra Bu Prăng – Đức Lập mùa đông 1969, B3 phải tổ chức một tuyến bảo đảm hậu cần dài nhất từ trước tới nay, gian khổ nhất từ trước tới nay: 25 cung vận chuyển gùi thồ dưới bom B52 và mưa lũ. Toàn quân làm công tác vận chuyển, kể cả các đơn vị trực tiếp nổ súng. Nhưng vấn đề hậu cần ở đây đâu chỉ là công việc vận chuyển. Có gì mà vận chuyển, B3 lúc đó không có gạo, các cơ quan, đơn vị phía sau đồng loạt ăn một lạng một ngày, dành gạo cho phía trước. Vẫn không đủ, phải vào tận B2 xin gạo ra với 25 cung gùi thồ như vậy đấy. Mà kết cục chiến dịch vẫn không thực hiện được như kế hoạch.

Từ năm 1973, nếu khả năng bảo đảm hậu cần chiến dịch đã tốt hơn lên rất nhiều thì việc bảo đảm vận chuyển chiến lược Bắc – Nam khi qua khu vực này đã càng phức tạp hơn, khiến cho một chiến dịch tiến công ở Nam Tây Nguyên càng trở nên cấp thiết. Tôi đã có dịp nói đến những quan hệ khó khăn giữa Tây Nguyên và Khơ-me đỏ thời kỳ sau đảo chính của Lon Non. Những khó khăn đó lại càng tăng thêm trong những năm gần đây. Ta trở lại vấn đề trên: Hành lang vận chuyển Bắc-Nam của chúng ta, cho đến thời kỳ này khi đi qua phía bắc Đức Lập (Nam Tây Nguyên) – nơi có địa hình độc đạo rất hiểm nghèo mà địch chiếm giữ – vẫn phải né một chút sang đất đông Cam-pu-chia trước khi vào đến Nam Bộ. Khơ-me đỏ vong ân bội nghĩa lợi dụng điều này, nhất là trên đoạn đường tiếp giáp với Nam Bộ, đã nhiều lần tung lính ngăn chặn xe vận tải của ta, giết người, cướp hàng, đồng thời lại luôn luôn đưa yêu sách đòi ta rút bỏ con đường. Xuất phát từ những nguyên nhân ấy, các cơ quan chiến lược của chúng ta đã nhìn thấy vấn đề trước hết là cần phải có ngay một chiến dịch tiến công ở hướng này, nắn con đường vận tải chiến lược vào lại đất Việt.

Thực ra Bộ tư lệnh Tây Nguyên cũng đã dự kiến một chiến dịch như thế vào cuối năm 1973. Thật là cần thiết. Chúng ta sẽ giải phóng Đức Lập, giữ vững địa bàn này, nối ngay đường vận chuyển chiến lược của bộ đội 559 với đường 14 từ bắc Đức Lập, tạo thành hành lang Bắc – Nam hoàn toàn nằm trên dải Trường Sơn của đất nước chúng ta. Nhưng muốn thế phải có đủ lực lượng, phải có nhiều lực lượng. Bước vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, chúng ta đã ra khỏi yêu cầu tác chiến hầu như duy nhất là tiêu diệt sinh lực địch để coi trọng song song cả mục đích giải phóng đất đai, giải phóng lãnh thổ. Riêng đối với một chiến dịch ở Nam Tây Nguyên – như mục đích xác định ban đầu- ta càng phải giữ vững địa bàn đã giải phóng để bảo đảm sự thông suốt của hành lang vận chuyển chiến lược: “Một lực lượng trực tiếp đánh chiếm mục tiêu và đánh địch phản kích (chúng tôi nhấn mạnh), một lực lượng vòng ngoài để buộc địch phải phân tán đối phó, lực lượng này sức một có thể thành hai (chúng tôi nhấn mạnh), vì không bị câu thúc giữ địa bàn, không bị xé lẻ…” (1).

Khi ở Quân khu V, chúng tôi cũng đã bàn phương án này và đề nghị rằng, nếu có sự tăng cường của Bộ thì nên có hai sư đoàn cho Tây Nguyên, một sư đoàn cho đồng bằng Trung Trung Bộ (Quân khu V). Một chiến dịch như vậy là phải tính tới khả năng đánh địch phản kích cả năm và muốn thế “ngay từ bây giờ (1973) phải lót gạo, đạn cho đến xuân 1975” (2) Nghĩa là – tôi muốn nhắc lại – chiến dịch này mới mang mục đích khai thông và giữ vững hành lang Bắc – Nam và mục tiêu cụ thể của nó là Đức Lập. Nhưng vào lúc nào thì Buôn Ma Thuột được đề cập đến? Tôi còn nhớ, trong những dịp trao đổi thảo luận ở Quân khu V, một lần nữa, chúng tôi đã nhất trí đánh giá tầm quan trọng chiến lược của Tây Nguyên và đã dự kiến một phương án đánh lớn giải phóng thị xã, thị trấn ở khu vực này.

Sau khi nêu ra những số liệu so sánh địch, ta, đồng chí Võ Chí Công có đặt câu hỏi: Chúng ta có thể ngay trong mùa khô này, tập trung lực lượng giải phóng trước hết Buôn Ma Thuột được không?”. Câu trả lời là có thể. Thượng tướng Chu Huy Mân nhấn mạnh, trong trường hợp đó, nhất thiết Khu V phải phối hợp chặt đứt đường 19 và đường 21, chia cắt chiến lược địch ở Tây Nguyên với đồng bằng. Chúng tôi cũng đã có dịp đặt vấn đề giải phóng Buôn Ma Thuột trong Bộ tư lệnh Tây Nguyên. Ta hãy thử nhìn lên bản đồ. Đức Lập cách Buôn Ma Thuột có 30km. Mất Đức Lập, sống chết địch cũng phải phản kích để khôi phục lại và chúng có ngay một căn cứ xuất phát rất tốt cả về mặt chiến dịch lẫn chiến đấu là Buôn Ma Thuột. Khi bàn đến tình huống này, Đại tá Vương Tuấn Kiệt, Tham mưu trưởng Tây Nguyên, đã thốt lên: “Phải chi chúng ta có thêm 2 sư đoàn nữa để đánh ngay Buôn Ma Thuột”. Chúng tôi đã nhìn thấy khả năng này không những sẽ là bảo đảm vững chắc cho sự thông suốt của hành lang Bắc – Nam, là mục đích chiến dịch lúc ấy mà còn tạo được một địa bàn chiến lược rất cơ động hướng tới các ngả. Không, nếu được như thế thì chiến dịch sẽ mang một ý nghĩa và mục đích khác hẳn rồi. Ta lại phải nhìn vào bản đồ. Buôn Ma Thuột giữ một khoảng cách khá đều với Bắc Tây Nguyên, đồng bằng Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ – Sài Gòn. Một trung tâm của một chiến trường vượt ra ngoài phạm vi Tây Nguyên hướng tới toàn cục. Một ngã ba đường, những con đường rất tốt và thuận tiện. Có thể thấy ngay sức chấn động đến đầu não Sài Gòn của một trận đánh vào Buôn Ma Thuột chẳng khác gì những sóng giao thoa mà một hòn đá ném xuống giữa mặt nước tạo nên.

Cố nhiên, vấn đề ở đây vẫn là lực lượng. Tây Nguyên lúc đó chỉ có hai sư đoàn đang ôm lấy mặt trận chính hướng bắc Plei-cu, Kon Tum và một số trung đoàn độc lập hoạt động ở các hướng khác. Cơ sở đâu để hạ quyết tâm? Chính là chiến lược – những người vạch kế hoạch ở Bộ Tổng tư lệnh – Tổng tham mưu và ở cấp cao nhất, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng – vào lúc đã nắm chắc lực lượng trong tay. Và như tôi đã nói những dự kiến của chúng tôi về một chiến dịch ở Nam Tây Nguyên cũng chính là bắt nguồn từ sự gợi ý và chỉ đạo của chiến lược. Nó có mục đích của chiến dịch lúc này gắn chặt với chiến lược. Còn lại vấn đề thời cơ: Khi nào thì có thể? Và thời cơ ấy đã đến vào cái thời điểm mà tất cả chúng ta đều đã biết, khi các điều kiện khác cũng đã chín muồi cho việc hạ quyết tâm.

Để kết thúc phần này, tôi muốn nói thêm: Thực tiễn chiến đấu có nhiều lúc đem đến những kết quả bất ngờ, và thước đo sự thành công là ở đấy. Chúng ta có thể thấy, chiến dịch đã được thiết kế với mục đích ban đầu là tạo một hành lang vận chuyển cơ giới thông suốt Bắc-Nam bằng cách tiêu diệt và giữ vững Đức Lập. Trong quá trình, khi xét tới các dữ kiện, chúng ta đã chuyển mục tiêu sang giải phóng Buôn Ma Thuột, một trung tâm chính trị và đầu mối giao thông quan trọng, khoác lên chiến dịch Nam Tây Nguyên một tầm cỡ chiến lược. Lúc này trận Đức Lập không được coi là mục tiêu chiến dịch nữa mà chỉ là hành động tác chiến mở màn, thậm chí giống như một đòn nghi binh. Nhưng cuối cùng, thực tế là chiến dịch Nam Tây Nguyên đã biến thành chiến dịch Tây Nguyên với những hoạt động tác chiến phát triển cả ra ngoài phạm vi Tây Nguyên, rồi trở thành chương mở đầu đầy ý nghĩa cho cuộc Tổng tiến công như vũ bão mùa Xuân 1975. Sự vận động biện chứng của tư duy và thực tiễn giao tiếp nhau, nâng đỡ nhau để dẫn tới kết cục thần kỳ. Ở đây sự nhạy bén và tầm nhìn xa rộng của Bộ Tham mưu chiến lược của chúng ta là xuất sắc. Tôi muốn nói thế vì vẫn còn có những kẻ ở phía bên kia cho rằng thắng lợi tuyệt đối mà chúng ta giành được có yếu tố ngẫu nhiên. Xin hỏi lại, năm Mậu Thân có phải ngẫu nhiên không? Hiệp định Pa-ri được ký kết có phải ngẫu nhiên không? Quân Mỹ buộc phải rút khỏi chiến trường có phải ngẫu nhiên không? Huống hồ vào năm 1975, tất cả đã rõ ràng là nếu không có Tây Nguyên thì sẽ có một cái gì đó giống như Tây Nguyên, hệ quả trực tiếp của những sự kiện mà tôi vừa đặt thành câu hỏi trên, hệ quả trực tiếp của cuộc kháng chiến lâu dài chống Mỹ, cứu nước. Và thắng lợi trọn vẹn mà chúng ta giành được đã sớm hơn dự kiến thì cũng chỉ chứng tỏ rằng thực tiễn chiến đấu là sự phán quyết cuối cùng.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
Tiến sĩ Vũ Cao Phan (ghi)

Kỳ 2: Quyết chiến

(1) Điện gửi Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng ngày 12-12-1973. Lưu trữ Bộ Tổng tham mưu.
(2) Điện gửi Phó tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn ngày 6-12-1973. Lưu trữ Bộ Tổng tham mưu.

Quyết chiến

Tháng Tư 13, 2011 Bình luận đã bị tắt

Trận then chốt quyết định (kỳ 2)

Đúng như lòng mong muốn, sau các cuộc họp khẩn trương tại Hà Nội, tôi nhận được quyết định trở lại Tây Nguyên với cương vị Tư lệnh chiến dịch, một chiến dịch mở đầu cho chiến cuộc 1975. Sát ngày lên đường, tôi gặp đồng chí Lê Đức Thọ. Rất thân tình vui vẻ, đồng chí nhấn mạnh rằng đây là thời cơ lớn: “Địch đã xuống sức rồi, phải kiên quyết và táo bạo nắm lấy các tình huống phát triển của chiến dịch. Chúc thắng lợi lớn. Đồng chí hãy chuyển đến đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên lời thăm hỏi và lòng tin tưởng của Trung ương Đảng”. Rời Hà Nội, chúng tôi cố gắng vào chiến trường thật sớm. Chẳng may chiếc xe quá cũ phải nằm lại ngang Quân khu IV, và chúng tôi lập tức nhận được sự giúp đỡ đầu tiên: Thiếu tướng Tư lệnh Quân khu Đàm Quang Trung ưu tiên đổi cho một chiếc xe mới. Vào đến Hiền Lương, chúng tôi tìm đến sở chỉ huy của Bộ đội Trường Sơn. Các đồng chí mới xê dịch từ miền tây Quảng Bình vào đây, công việc còn đang ngổn ngang, nhưng tôi vẫn được Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và các đồng chí có trách nhiệm hướng dẫn chu đáo. Việc đầu tiên là đồng chí thông báo cho tôi biết tình hình hành quân nhập tuyến của các lực lượng tăng cường cho Tây Nguyên. Rồi cười:

– Còn gạo, đạn, xăng, dầu, anh yên trí, không phải kêu đâu, chúng tôi vẫn và đang tiếp tục chuyển nữa, đủ để làm lại cả “năm 1972”.

Quân giải phóng làm chủ sân bay Hòa Bình, thị xã Buôn Ma Thuột. Ảnh tư liệu.

Chúng tôi thật đã quá hiểu nhau cái năm 1972 ấy, khi chiến dịch nổ ra ở bắc Tây Nguyên. Hồi đó, tôi không hiểu đồng chí “Tư lệnh đường dây” đã phải vò đầu bứt tai như thế nào khi luôn luôn thấy xuất hiện trước mắt mình các bức điện thượng khẩn của Bộ tư lệnh Tây Nguyên với những câu ngắn gọn, mạch lạc đến chát chúa: “Rất thiếu xăng”, “Cần gấp gạo và xăng”, “Gạo vào quá nhỏ giọt”, “Không đủ đến ngày N” và lại còn thế này nữa: “Bắt đầu mưa xuống rồi”. Với đường đất Tây Nguyên hồi đó, mưa tức là chấm dứt mọi khả năng vận chuyển, trừ cách gùi thồ.

– Cám ơn. Chúng tôi có thể “vào” ngay đêm nay được không anh?

– Ngay bây giờ cũng được, đường tốt, không có máy bay địch từ Trị Thiên trở ra. A, chúng tôi đã thông xong con đường phía đông rồi đấy. Mời anh hành quân bằng tuyến đường mới này…

Còn gì bằng nữa, chúng tôi đang muốn rút ngắn khoảng cách về thời gian với chiến trường. Đây là con đường thẳng, còn con đường quen thuộc phía tây lại phải đi một vòng cung.

Ngày vào đầu tiên thuận lợi. Không có máy bay địch hoạt động, mặc dù chúng tôi đi ban ngày. Khỏi cần nói xa xôi, thắng lợi của Hiệp định Pa-ri là đây chứ còn đâu nữa. Các nam nữ chiến sĩ công binh, thanh niên xung phong nhộn nhịp trên mặt đường từ sáng đến tối. Đường còn đang mở tiếp, còn đang nắn lại, đoạn nào xong thì tiếp tục củng cố. Chạy cùng với đường ô-tô là đường ống dẫn dầu, một kỳ công nữa của ngành hậu cần trên dải Trường Sơn. Chúng tôi say mê ngắm từng đoạn đường ống ló ra khỏi rừng cây và cảm động nhìn những chiến sĩ gái trẻ măng thao tác nhanh nhẹn tại mỗi trạm bơm mà chúng tôi dừng lại lấy xăng.

Cuối tháng 1, tiết trời dìu dịu. Cảnh vật, con người, không khí gợi đến cho tôi sự liên tưởng về những lần đi vào chiến trường của mình. Nó vẫn như còn bày ngay trước mắt đấy, giữa biết bao kỷ niệm của cuộc đời.

Lần đầu, năm 1966, tôi đi bộ xuyên dọc Trường Sơn, phải mất gần hai tháng trời gian khổ mới vào tới Tây Nguyên.

Lần thứ hai, năm 1969, tôi đi khá nhanh bằng máy bay, nhưng phải qua sân bay trung gian Bắc Kinh, rồi một sân bay trung gian nữa là PhNôm Pênh cộng với phương tiện cuối cùng là đôi chân, mới về đến Sở chỉ huy của mình.

Lần thứ ba: Ấy là vào năm 1973, tôi lại sử dụng đường Trường Sơn nhưng đã không phải đi bộ mà ngồi lên xe hơi. Một con đường vòng mà phần lớn lại nằm trên lãnh thổ hai nước anh em Lào, Cam-pu-chia. Như thế đã là khá lắm rồi.

Còn lần này: Xe hơi đường thẳng, hoàn toàn đi trên đất nước mình! Điều tôi muốn nói tưởng chẳng cần viết ra trên giấy trắng mực đen nữa.

Vào đến Trao, địa đầu đất Quảng, chúng tôi gặp một ít khó khăn: Đường lầy vì mở ra đúng vào mùa mưa Trung Bộ và vì bắt đầu có máy bay địch nên lại phải nắm quy luật hoạt động của chúng mà đi. Nhưng khi gặp phải khó khăn có vẻ khó khắc phục nhất thì chúng tôi lại vượt qua dễ dàng: Chiến sĩ lái xe đột ngột ốm và chúng tôi đã thuyết phục được ngay một đồng chí lái xe đi ngược chiều, đồng chí đã vui lòng gửi xe mình lại rồi đưa chúng tôi vào mà không quản ngại khó khăn. Tôi vẫn còn nhớ tên con người giản dị, nhiệt tình ấy và hôm nay xin một lần nữa gửi lời cám ơn đồng chí, đồng chí Lê Văn Đoài, hạ sĩ lái xe thuộc Mặt trận B5.

Chúng tôi đến Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên đêm 29 tháng 1, hơn một tuần sau khi xuất phát. Thật là một thời gian ngắn kỷ lục vào thời kỳ ấy! Nhưng Sở chỉ huy chiến dịch đã chuyển mãi vào phía nam, chúng tôi chỉ còn gặp ở đây Đại tá Phó chính ủy Phí Triệu Hàm, Thượng tá Phó tham mưu trưởng Hồng Sơn và một số đồng chí khác. Tôi nắm qua tình hình địch rồi đi ra phía trước. Mùa này Tây Nguyên đầy hoa phong lan, chúng tôi đi đường kín trong rừng lại càng tha hồ chiêm ngưỡng phong lan đủ màu, đủ vẻ. Có nhiều chỗ, phong lan xòe ra như cánh tay tiên mời chào. Tôi muốn kể một chuyện nho nhỏ, là vào dịp này, tôi nhận được một giò lan đai trâu tuyệt đẹp. Và giò lan ấy đã đi cùng tôi suốt chiến dịch, suốt chiến cuộc 1975, từ Tây Nguyên xuống đồng bằng Trung Bộ, vào thành phố Sài Gòn giải phóng rồi ra Hà Nội mới chịu từ biệt vị trí sau xe để đến ở nhà bác sĩ Phan (Viện Quân y 108)-một người bạn cũ rất thích phong lan.

Khi tôi đến nơi, không khí nhộn nhịp như ngày Tết ở Sở chỉ huy đã gây ấn tượng rất mạnh. Tôi hòa ngay vào không khí say lòng người lính ấy. Mà cũng chỉ còn ít ngày nữa thôi là đến Tết Nguyên đán Ất Mão. Tôi tranh thủ nắm ngay tình hình mọi mặt qua Thiếu tướng Vũ Lăng và Đại tá Đặng Vũ Hiệp. Các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận (mà bây giờ trở thành Bộ tư lệnh Chiến dịch) đã hoàn tất xong rất nhiều việc, có thể nói đã đi quá nửa đường trong công tác chuẩn bị chiến dịch và riêng về các mặt công tác đảm bảo một khối lượng khổng lồ từ việc xây dựng kho tàng, đường sá, vận chuyển, thiết lập mạng thông tin, mạng quân y, cho gạo đạn đi các hướng đến các chi tiết của việc tiến hành nghi binh lừa địch và đảm bảo tuyệt đối giữ bí mật thì đã “hòm hòm”, theo như lối nói của bộ đội. Đảm bảo mọi mặt cho một lực lượng trên sáu mươi ngàn người thật không phải dễ. Các đồng chí cũng mới nhận được quyết tâm chuyển mục tiêu chủ yếu vào Buôn Ma Thuột chỉ ít ngày trước đây khi Thiếu tướng Phó tổng tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền trực tiếp vào phổ biến, vậy mà công tác trinh sát chiến dịch bước 1 cũng đã được tiến hành. Lực lượng đang được triển khai về vị trí tập kết: Sư đoàn 320 xê dịch về giữa hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc; Sư đoàn 10 đang hành quân từ phía bắc vào phía nam mặt trận với một cung đường không phải là ngắn; Sư đoàn 968 đã đưa được một phần lực lượng của mình từ Hạ Lào sang thay thế vị trí các sư đoàn trên và đang còn tiếp tục đến; các trung đoàn bộ binh độc lập cũng đang tiến vào các địa bàn hoạt động được xác định. Chỉ riêng Sư đoàn 316, hành quân gấp bằng cơ giới từ miền Bắc vào là chưa đến nơi. Nhưng đoàn trưởng, phó sư đoàn trưởng và các sĩ quan tham mưu thì đã có mặt và đang tiến hành trinh sát thực địa. Các dữ kiện chuẩn bị cho việc xác lập phương án tác chiến đang được thảo luận. Tất cả những cái đó đã làm giảm nhẹ gánh nặng của tôi rất nhiều trong cương vị Tư lệnh chiến dịch. Tôi thầm cảm ơn các đồng chí. Ở đây, tôi cần phải nhấn mạnh một điều là công tác chuẩn bị chiến dịch đã được và sẽ được tiến hành còn có sự chi viện to lớn, nhiều mặt của chiến lược và các chiến trường bạn. Chúng tôi xem đó là một trong những yếu tố quyết định. Chỉ riêng về vấn đề lực lượng đã gửi đến tăng cường cho chiến dịch không chỉ bộ đội dự bị chiến lược mà cả một số đơn vị của các mặt trận Trị-Thiên, mặt trận Duyên Hải Trung Bộ, mặt trận Nam Bộ và mặt trận Trường Sơn. Cái yêu cầu “cần được tăng cường để tạo nên thế mạnh bởi hai lực lượng” mà chúng tôi nêu ra trước đây như thế là được thỏa mãn; vượt mức là đằng khác. Cơ cấu của Bộ chỉ huy chiến dịch nói lên điều đó: Sự có mặt của các Phó tư lệnh, Đại tá Phan Hàm (Phó cục trưởng Cục Tác chiến), Đại tá Nguyễn Lang (Phó tư lệnh Bộ đội Trường Sơn) đã giúp cho việc điều động và tăng cường lực lượng được nhanh chóng, đúng yêu cầu. Bộ tổng tư lệnh-Tổng tham mưu còn cử đến các Thượng tá Hoàng Niệm (thông tin), Lê Xuân Kiện (xe tăng) và Tạ Vân (pháo binh) để giúp vào việc chỉ đạo chỉ huy các binh chủng. Bộ chỉ huy quân sự Miền (B2) cũng đã cử ngay một tổ cán bộ do Thượng tá Vũ Long-người giảng viên cũ đã cùng tôi công tác ở Học viện Quân sự-dẫn đầu, ra phổ biến kinh nghiệm tiến công thị xã Phước Long, một kinh nghiệm thật bổ ích. Đặc biệt là sự xuất hiện lần đầu tiên bên cạnh Bộ chỉ huy Chiến dịch, một cơ quan đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng đứng đầu và gồm các đồng chí Trung tướng Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền và các đồng chí khác đã chứng tỏ quyết tâm cao độ của Trung ương và tầm mức quan trọng của chiến dịch này. Trên thực tế, cơ quan đại diện không những chỉ đạo chúng tôi trong quá trình chuẩn bị mà chính là chỉ đạo việc chỉ huy tác chiến sắp tới.

Chiều ngày 8 tháng 2, tại Bộ tư lệnh Mặt trận, đã có cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và các đồng chí bên dân, Đảng. Đồng chí Bùi San (Chín Liêm), Thường vụ Khu ủy V, người đã cùng chúng tôi làm việc trong một bộ chỉ huy chung năm Mậu Thân lại một lần nữa được Khu ủy cử lên phối hợp các hoạt động nổi dậy của nhân dân và giúp đỡ Bộ Tư lệnh chiến dịch trong các công tác dân vận. Phía Đắc Lắc có các đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (Năm Cần), Yblok E ban, Nguyễn Xuân Nguyên (Mười Nguyên) và nhiều đồng chí khác. Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh), cũng lặn lội từ bắc Tây Nguyên vào để nhận kế hoạch hiệp đồng. Riêng các đồng chí ở Kon Tum, vì ở quá xa nên không trực tiếp đến được, hứa với Khu ủy sẽ phối hợp các hoạt động chiến trường ở mức cao nhất. Trong những ngày này, chúng tôi đã sống lại không khí của năm Mậu Thân giữa nhiệt tình cách mạng nóng bỏng của lãnh đạo và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Có thể nói, đồng bào, đồng chí, đã làm hết sức mình để chiến dịch thắng lợi. Ở phía bắc, khối chủ lực chính rút đi nhưng phong trào du kích không những giữ vững mà còn được đẩy mạnh hơn lúc nào hết đã góp phần kìm giữ một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Ở phía nam, địa phương đã cùng chúng tôi giải quyết nhiều khó khăn nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và chủ động đề xuất kế hoạch hiệp đồng tác chiến và nổi dậy, chủ động nhận nhiệm vụ tiến đánh chi khu quân sự quận lỵ Lạc Thiện và một số căn cứ ngoại vi để phối hợp với đòn của bộ đội chủ lực.

Cuộc gặp gỡ đã biến thành một cuộc liên hoan vui vẻ đón Giao thừa nhân dịp Tết Ất Mão và cũng là để khẳng định những kết quả đã đạt được. Anh Chín còn lưu ý thêm chúng tôi phải đề phòng Fulro, vì Đắc Lắc là địa bàn hoạt động mạnh của bọn này.

Trong mấy ngày Tết, tôi tranh thủ xuống kiểm tra một số đơn vị và chúc Tết anh em. Tất cả đều phấn khởi, tất cả đều háo hức một không khí vào trận mùa xuân.

– “Nghỉ” mấy mùa đánh lớn buồn lắm. Phen này chúng tôi phải trả bữa, xin thủ trưởng cho đủ đạn nhé!

Và tất cả đều khỏe mạnh. Quân y vừa cho tôi biết, tỷ lệ quân số khỏe tháng 1 của toàn chiến trường là 96,2%, cao nhất từ trước tới nay! Ai ở Tây Nguyên lâu mà không nhớ những năm khó khăn, được một tỷ lệ 90% đã thật là lý tưởng.

Đến một ngã ba vì không được báo trước các đồng chí gác ba-ri-e buộc xe tôi phải dừng lại theo nguyên tắc giữ bí mật, nhưng sau khi nhận ra chúng tôi thì các đồng chí lại giúp đỡ vượt ngầm rất nhiệt tình, chu đáo. Tôi gặp bộ đội đang hành quân bằng cơ giới. Các chiến sĩ bộ binh ngồi trên một chiếc xe tăng vui vẻ reo lên:

– Chúc mừng năm mới các thủ trưởng!

Tôi chào các chiến sĩ và chuyện lại nở bung. Anh em phàn nàn là nuôi mấy chú gà tết, cuối cùng chẳng được ăn.

– Tại sao?

– Chúng tôi lần đầu tiên hành quân trên xe tăng, không biết thế nào cả. Có bu gà buộc cẩn thận sau xe, khi dừng nghỉ kiểm tra thì ôi thôi, chết thui chẳng còn một chú. Mới hay chỗ đó là ống xả, lính Tây Nguyên mà thủ trưởng!

Lại cười. Tôi trìu mến nhìn các chiến sĩ của mình. Chỉ người chỉ huy mới nhận ra rằng, dưới vẻ hồn nhiên vô tư ấy, các chiến sĩ đã sẵn sàng cho trận đánh lớn. Trên dưới đã đồng, trận này phải thắng.

Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO

Tiến sĩ Vũ Cao Phan (ghi)